Tổng quan về huyện Kim Động trước sáp nhập
Nếu ai đã từng đi qua vùng đất Kim Động, hẳn sẽ nhớ đến những con đường nhỏ len qua đồng lúa, dòng sông Hồng ôm dọc phía Tây, và những ngôi làng cổ nép mình trong tán cây xanh. Trước khi địa giới được điều chỉnh, huyện có diện tích khoảng 105 km², dân cư trên 150.000 người, phân bố tương đối đều ở cả các xã ven sông lẫn những vùng đất canh tác lâu đời.
Địa hình ở đây không hẳn bằng phẳng tuyệt đối, mà thấp dần từ rìa sông Hồng về phía trung tâm huyện, tạo nên những bãi bồi mỡ màng, nơi người dân trồng ngô, chuối, rau vụ đông. Nét riêng của Kim Động chính là sự pha trộn giữa nông nghiệp truyền thống và những mảng đô thị hóa lặng lẽ đang mở rộng, nhất là ở các xã giáp thành phố Hưng Yên.
Ranh giới hành chính trước sáp nhập:
- Phía Bắc giáp huyện Khoái Châu
- Phía Nam giáp huyện Tiên Lữ
- Phía Đông giáp thành phố Hưng Yên
- Phía Tây giáp huyện Phú Xuyên (Hà Nội), ngăn cách bởi sông Hồng

Nằm ở vị trí tiếp giáp Thủ đô và trung tâm tỉnh, Kim Động được coi như “vùng đệm” của quá trình phát triển công nghiệp – dịch vụ, đồng thời vẫn giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Đơn vị hành chính
Kim Động trước thời điểm sáp nhập có 15 đơn vị hành chính cấp xã, gồm một thị trấn trung tâm và 14 xã. Đây đều là những địa danh lâu đời, gắn với nếp sinh hoạt đặc trưng của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng.
Danh sách các đơn vị hành chính: Thị trấn Lương Bằng, xã Chính Nghĩa, xã Diên Hồng, xã Đồng Thanh, xã Đức Hợp, xã Hiệp Cường, xã Hùng An, xã Mai Động, xã Nghĩa Dân, xã Ngọc Thanh, xã Phạm Ngũ Lão, xã Phú Thọ, xã Song Mai, xã Toàn Thắng, xã Vĩnh Xá.

Hạ tầng và những điểm đáng chú ý
Cơ sở hạ tầng
Dọc tuyến đê sông Hồng, người ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh những con đường bê tông mới, xen lẫn những đoạn đê cổ đã được gia cố kiên cố hơn sau mỗi mùa mưa lũ. Từ lâu, hạ tầng giao thông của Kim Động được xây dựng dựa vào đặc thù “mặt hướng sông, lưng tựa đồng”. Các trục chính như đường tỉnh 379 và những nhánh giao thông kết nối thành phố Hưng Yên đi qua địa bàn đã góp phần đưa hàng hóa, nông sản ra thị trường nhanh hơn.

Không gian hạ tầng của huyện cũng đang dần đổi khác, với những khu dân cư mới khang trang mọc lên quanh thị trấn Lương Bằng và các xã lân cận. Điện lưới, nước sạch, hệ thống thủy lợi nội đồng được đầu tư đồng bộ hơn so với trước đây. Mặc dù không quá sôi động như Mỹ Hào hay Khoái Châu, Kim Động vẫn có một nhịp phát triển chậm rãi mà bền bỉ, phản ánh sự thích ứng của một vùng quê ven đô đang đổi thay từng ngày.
Kinh tế
Ở Kim Động, nông nghiệp vẫn là mạch sống chính của phần lớn gia đình. Những mùa gặt nối tiếp nhau trên cánh đồng lúa, mùa đông đến người dân lại tấp nập thu hoạch rau màu, ngô, đỗ. Trong nhiều xã, chăn nuôi nhỏ và trồng cây ăn quả cũng được duy trì như nguồn thu nhập bổ sung.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng Kim Động cũng đã manh nha hình thành các khu tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại quy mô nhỏ. Tại thị trấn Lương Bằng, dọc trục chính, các cửa hàng vật liệu xây dựng, cơ sở cơ khí, dịch vụ nông sản xuất hiện ngày một nhiều hơn, báo hiệu một sự chuyển dịch dần dần của cơ cấu kinh tế địa phương.

Làng nghề truyền thống
Không giống như Văn Giang hay Khoái Châu, Kim Động không có nhiều làng nghề được biết đến rộng rãi ngoài huyện. Sản xuất thủ công ở đây phần lớn diễn ra quy mô hộ gia đình, chủ yếu là nghề mộc dân dụng, làm hương hoặc gia công nông cụ. Những nghề này không phát triển thành cụm nghề lớn, mà tồn tại như một phần lặng lẽ trong sinh kế của các gia đình.
Có thể nói, Kim Động là vùng đất mà nghề nông vẫn được coi trọng hơn tất cả. Sản phẩm đặc trưng nhất của huyện không phải thứ gì quá đặc biệt, mà chính là nông sản tươi, lúa gạo và rau màu, vốn nuôi sống nhiều thế hệ người dân.
Di tích, danh lam thắng cảnh
Với nhiều người lớn lên ở Kim Động, ký ức về quê hương không chỉ là những thửa ruộng trải dài, mà còn là hình ảnh mái đình, ngôi đền làng nằm im lặng bên những lũy tre. Dù không sở hữu các quần thể di tích quy mô lớn như Phố Hiến, huyện vẫn có những điểm thờ tự được người dân coi như chốn tinh thần để tìm về mỗi dịp lễ tết.
Đền Phạm Ngũ Lão ở xã Phạm Ngũ Lão là di tích tiêu biểu nhất. Ngôi đền này thờ danh tướng nhà Trần, người được tôn kính vì tài thao lược và khí tiết. Hằng năm, lễ hội tưởng niệm được tổ chức trang trọng, thu hút đông đảo con cháu trong vùng về dâng hương. Trong không khí rộn ràng của cờ phướn, tiếng trống hội, người dân ôn lại chuyện xưa, như cách gìn giữ mạch lịch sử không đứt đoạn.
Ngoài đền Phạm Ngũ Lão, Kim Động còn nhiều đình, chùa cổ khác rải rác khắp các xã. Đình Nhân La (xã Nhân La) được xem là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của cả cộng đồng, nơi tổ chức hội làng vào mùa xuân. Chùa Nhân Dục (xã Ngọc Thanh) tuy không lớn nhưng vẫn giữ được không gian tĩnh lặng, nét kiến trúc cổ kính hiếm gặp. Những ngôi đình miếu như vậy chính là nơi hội tụ đời sống tinh thần, gắn kết người dân làng qua bao thế hệ.
Định hướng phát triển năm 2030, tầm nhìn năm 2050
Giai đoạn đến năm 2030
Kim Động sẽ tiếp tục ưu tiên sản xuất nông nghiệp an toàn, bảo vệ quỹ đất trồng lúa và phát triển thêm vùng chuyên canh rau, cây ăn quả ven sông. Chính quyền huyện cũng đặt mục tiêu củng cố hạ tầng giao thông, mở rộng các tuyến đường liên xã, xây dựng cầu nhỏ vượt kênh nội đồng, và phát triển thêm điểm trung chuyển nông sản. Huyện hướng đến nâng tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt trên 98%, hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới nâng cao, đồng thời khuyến khích tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nhỏ ở trung tâm thị trấn.
Tầm nhìn đến năm 2050
Tầm nhìn dài hạn của Kim Động là trở thành vùng nông nghiệp sạch gắn với dịch vụ nông thôn, bảo tồn những không gian làng quê đặc trưng đồng bằng Bắc Bộ. Huyện cũng định hướng phát triển du lịch trải nghiệm – tham quan đồng lúa, bãi sông, lễ hội truyền thống. Đến năm 2050, Kim Động phấn đấu hoàn thiện hạ tầng hiện đại hóa, nhưng vẫn giữ nếp sống bình yên, thân thuộc – một vùng quê ven đô, vừa giàu tiềm năng vừa gìn giữ được bản sắc xưa.

Xem chi tiết: Bản đồ quy hoạch Huyện Kim Động
Xem thêm các bản đồ quy hoạch các thành phố/huyện/thị xã thuộc tỉnh Hải Dương: