Tổng quan về huyện Bình Gia
Bình Gia là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Lạng Sơn, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 70 km và cách thủ đô Hà Nội khoảng 170 km. Huyện có khí hậu mát mẻ quanh năm, địa hình chủ yếu là đồi núi xen kẽ thung lũng, phù hợp phát triển nông – lâm nghiệp và du lịch sinh thái.
- Diện tích tự nhiên: khoảng 1.047,3 km²
Dân số (năm 2019):
52.689 người
- Thành thị: Khoảng 9.060 người
- Nông thôn: Khoảng 43.629 người
- Mật độ dân số: khoảng 50 người/km²
- Trung tâm hành chính: Thị trấn Bình Gia
Vị trí địa lý và tiếp giáp:
- Phía Đông giáp huyện Văn Lãng và Văn Quan
- Phía Tây giáp huyện Na Rì (Bắc Kạn) và huyện Võ Nhai (Thái Nguyên)
- Phía Nam giáp huyện Bắc Sơn
- Phía Bắc giáp huyện Tràng Định
Trên địa bàn có nhiều hang động đá vôi nổi bật như Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lèng, cùng hệ thống sông suối nhỏ. Sông Văn Mịch chảy qua huyện tạo nên hồ chứa Phai Danh, có vai trò quan trọng trong công tác thủy lợi, phục vụ sản xuất nông nghiệp

Đơn vị hành chính
Huyện có 19 đơn vị hành chính cấp xã, gồm:
- Thị trấn Bình Gia (huyện lỵ)
- 18 xã: Bình La, Hòa Bình, Hoa Thám, Hoàng Văn Thụ, Hồng Phong, Hồng Thái, Hưng Đạo, Minh Khai, Mông Ân, Quang Trung, Quý Hòa, Tân Hòa, Tân Văn, Thiện Hòa, Thiện Long, Thiện Thuật, Vĩnh Yên, Yên Lỗ.
Năm 2020, sáp nhập xã Tô Hiệu và một phần xã Hoàng Văn Thụ vào thị trấn Bình Gia (tăng dân số thêm 4.519 người, diện tích thêm 26,42 km²).

Hạ tầng và các đặc điểm nổi bật
Cơ sở hạ tầng
- Giao thông đường bộ: Huyện Bình Gia có hệ thống giao thông tương đối thuận lợi với Quốc lộ 1B và Quốc lộ 279 chạy qua trung tâm huyện, tạo trục kết nối quan trọng giữa Lạng Sơn – Thái Nguyên – Bắc Kạn – Trung Quốc. Ngoài ra, tỉnh lộ 226 nối thị trấn Bình Gia với Thất Khê, góp phần thúc đẩy giao thương và kết nối liên vùng.
- Giao thông thủy: Trên địa bàn có sông Văn Mịch và hồ thủy lợi Phai Danh, đóng vai trò quan trọng trong việc cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu nông nghiệp và điều tiết thủy lợi cho vùng hạ du.
- Hạ tầng cơ sở: Hạ tầng cơ bản tại các xã đã được đầu tư đồng bộ. 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, nhiều tuyến được bê tông hóa. Lưới điện quốc gia, trường học các cấp và trạm y tế phủ rộng toàn huyện, đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt, học tập và chăm sóc sức khỏe của người dân.

Kinh tế
- Nông – lâm nghiệp: Ngành nông – lâm nghiệp phát triển theo hướng tái cơ cấu sản xuất gắn với xây dựng Nông thôn mới. Một số cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cao, trong đó nổi bật là cây hồi tại xã Hoàng Văn Thụ, với sản lượng đạt khoảng 1.317 tấn/năm, tổng giá trị ước đạt khoảng 46 tỷ đồng. Chăn nuôi quy mô hộ gia đình vẫn là hình thức phổ biến, đáp ứng nhu cầu thực phẩm tại chỗ và tạo sinh kế bền vững cho người dân.
- Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: Quy mô nhỏ, chủ yếu tập trung vào chế biến nông – lâm sản địa phương, phục vụ tiêu dùng nội huyện và một phần thị trường lân cận. Một số cơ sở sản xuất thủ công truyền thống vẫn duy trì hoạt động, góp phần tạo việc làm tại chỗ.
- Thương mại – dịch vụ: Hoạt động thương mại diễn ra tại chợ trung tâm thị trấn Bình Gia (họp định kỳ 5 ngày/lần), cùng với hệ thống chợ xã phân bố tại các địa phương. Các dịch vụ hành chính, y tế, giáo dục tập trung chủ yếu tại thị trấn, cơ bản đáp ứng nhu cầu dân sinh và sản xuất.
- Du lịch – sinh thái: Huyện sở hữu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và khám phá hang động tự nhiên. Cảnh quan miền núi, khí hậu trong lành cùng nét văn hóa dân tộc đặc sắc là lợi thế để phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng và trải nghiệm bản địa.
Làng nghề công nghiệp
- Rèn thủ công tại xã Hồng Phong: Làm dao, liềm, cuốc phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Đan lát mây tre tại xã Tân Văn, Tân Hòa: Sản phẩm như rổ, rá, thúng được làm thủ công.
- Chế biến hồi tại xã Hoàng Văn Thụ: Tách tinh dầu, sơ chế phục vụ tiêu dùng và xuất bán.
Di tích – Lễ hội
Trên địa bàn huyện Bình Gia hiện có nhiều di tích lịch sử – văn hóa, lễ hội truyền thống và điểm du lịch tự nhiên tiêu biểu, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và thúc đẩy phát triển du lịch địa phương, cụ thể như sau:
- Hang Thẩm Khuyên – Thẩm Hai: Di tích khảo cổ quan trọng, đã được tôn tạo, là điểm đến hấp dẫn du khách.
- Hang Kéo Lèng: Nơi phát hiện nhiều hiện vật quý liên quan đến người tiền sử.
- Lễ hội Phài Lừa (xã Hồng Phong): Lễ hội lớn nhất huyện, gồm phần lễ cúng Thần Rắn và phần hội với trò chơi dân gian, thể thao, văn nghệ.
- Lễ hội Háng Pò: Lễ hội độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
- Lễ hội chùa Tiên: Diễn ra ngày 18 tháng Giêng, là lễ hội văn hóa lớn của tỉnh.
- Lễ hội Ná Nhèm (xã Trấn Yên – Bắc Sơn): Lễ hội phồn thực tiêu biểu của người Tày, mang đậm yếu tố tín ngưỡng dân gian.
- Thác Đăng Mò: Cảnh quan hoang sơ, không gian yên bình, thích hợp du lịch trải nghiệm và nghỉ dưỡng.
- Ẩm thực – đặc sản: lợn quay, vịt quay, khâu nhục, bánh khảo, rượu tầm gửi... là các món đặc sản địa phương.


Định hướng phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050
Mục tiêu đến năm 2030
- Thu nhập đầu người tăng 1,5–2 lần so hiện tại.
- Tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt trên 50%.
- Ít nhất 60% xã đạt chuẩn nông thôn mới; thị trấn Bình Gia trở thành đô thị loại V.
- Du lịch đạt 200.000 lượt khách/năm (hang động + homestay).
- Bảo tồn ít nhất 3 hang động cấp quốc gia.

Tầm nhìn đến năm 2050
- Phát triển du lịch sinh thái và văn hoá: Bắc Gia trở thành điểm đến hang động – bản địa – nghỉ dưỡng miền núi; homestay, trekking được quy hoạch bài bản.
- Nông nghiệp xanh, chế biến sâu: mở rộng diện tích hồi, phát triển rau sạch, chế biến sản phẩm đặc trưng như hồi hữu cơ.
- Công nghiệp địa phương gia tăng giá trị: sản xuất thiết chế nhỏ, chế biến thủ công phẩm, OCOP từ nông sản.
- Đô thị sinh thái – hiện đại: thị trấn Bình Gia hiện đại, xanh sạch, ứng dụng kỹ thuật đô thị thông minh.
- Ứng phó biến đổi khí hậu: hệ thống đê suối, thủy lợi đập Phai Danh, quản trị nước bền vững.
- Bảo tồn văn hoá động – lễ hội: tổ chức định kỳ lễ hội hang động, bản sắc tộc người kết hợp du lịch văn hoá; bảo tồn chợ phiên, quán xẩm, ẩm thực bản địa.
Huyện Bình Gia, với diện tích trên 1.000 km² và hơn 52.000 dân, có địa hình đồi núi gồ ghề, nguồn tài nguyên hang động – hang Thẩm Khuyên nổi bật, văn hoá dân tộc đa dạng. Định hướng đến 2030 tập trung vào hạ tầng, nông nghiệp chuyên canh (hồi...), du lịch cộng đồng và làng nghề truyền thống. Tầm nhìn đến 2050 biến huyện thành “Địa điểm du lịch sinh thái – văn hoá – nghỉ dưỡng vùng Đông Bắc”, đi đôi với phát triển xanh, bền vững và bản sắc văn hoá địa phương.